Mỗi tuần một huyền thoại bóng rổ (Kỳ 1) - Kareem Abdul-Jabbar

09:49 Thứ bảy 21/09/2013

Mở đầu cho loạt bài viết về các huyền thoại của NBA. Những người đi trước, đặt nền móng cho cái mà chúng ta vẫn theo đuổi hiện tại đây. Mỗi tuần một gương mặt, dựa trên những bài viết từ nba.com, wiki và các nguồn khác, mình sẽ cố gắng tái hiện lại đầy đủ chân dung những huyền thoại lớn nhất của NBA từ trước đến giờ, khi mà hầu như chúng ta chỉ quanh quẩn ở những cái tên như Jordan hay Magic. Đầu tiên tôi xin được nhắc đến Kareem Abdul-Jabbar

"Khi Kareem Abdul-Jabbar kết thúc trận đấu cuối cùng vào năm 1989 ở tuổi 42, ông đi vào lịch sử với một lô lốc những thành tích cá nhân mà khi ấy chưa có ai từng vượt qua được. Nhưng trên hết, người ta vẫn cứ nhớ đến cái tên Kareem Abdull-Jarbbar với tư cách là nhà vô địch về ghi điểm trong suốt lịch sử NBA kể từ khi thành lập."

I. Khởi đầu của một huyền thoại

Abdul-Jabbar với tên thật là Ferdinand Lewis Alcindor Jr, sinh ra tại thành phố New York, 2 năm sau khi kết thúc thế chiến II. Ông là con duy nhất của một bà mẹ có thói quen bảo vệ con thái quá và ông bố nghiêm khắc, nói một cách nào đó thì cậu bé Alcindor lớn lên trong sự ức chế. Càng về sau, với việc luôn là đứa trẻ cao nhất ở hệ thống trường Harlem, Alcindor thường bị bạn bè chế diễu vì sự phát triển bất thường. Sau khi thống trị giải bóng rổ Công giáo New York City Catholich trong màu áo của đội bóng Power Memorial, cậu ghi danh vào trường UCLA và chơi cho đội UCLA Bruins của John Wooden – huấn luyện viên huyền thoại của NCAA.

"Lew Alcidor, và sau đó là Kareem Abdul-Jabbar, đứng với huấn luyện viên Wooden"

Alcindor dĩ nhiên thống trị bảng xếp hạng của cả giải. Chỉ sau một mùa đầu tiên phải ngồi ngoài sân, do qui định cấm sv năm nhất chơi ở trình độ đại học, ông được bình chọn là Player of the Year vào năm 1967 và 1969 bởi tờ the Sporting News và hiệp hội kí giả bóng rổ Hoa Kì. Ông cũng được xướng tên là cầu thủ nổi bất nhất toàn nước Mỹ ở giải NCAA nwam 1967, 1968 và 1969. Với Alcindor trấn thủ ở trung tâm, Woodan và UCLA bỏ túi 3 chức vô địch quốc gia.

II. Trong màu áo Milwaukee Bucks

Đội Milwaukee Bucks mới chỉ bước sang mùa thứ 2 tại NBA khi họ pick Alcindor vào kì Draft năm 1969( mùa bóng đầu tiên của họ là một mùa giải đáng quên, thành tích 27-55 và giành first pick bằng việc tung đồng xu với Phoenix Suns). Thời điểm chính muồi cho một trung phóng mới thống trị cả giải đấu. Bill Russel đã rời Boston Celtics, và Wilt Chamberlain, dù vẫn còn thi đấu hiệu quả, cũng đã bước sang tuổi 35. Với sự góp mặt của Alcindor vào mùa bóng 1969-1970, Buck tiến thẳng đến vị trí thứ 2 ở miền Đông với kỉ lục 56-26 thắng/ thua. Alcindor trở thành ngôi sao mới, giữ vị trí ở 2 ở thành tích ghi điểm cả mùa(28.8 ppg) và thứ 3 ở thành tích rebound (14.5 rpg). Qua đó ông nghiễm nhiên giành danh hiệu Tân binh của năm.

Mùa bóng đầu tiên của một huyền thoại

Mùa hè sau đó, Bucks tiến hành những phi vụ chuyển nhượng để giành tấm vé tới chức vô địch NBA: hậu vệ Oscar Robertson từ Cincinati Royals. Với sự hỗ trợ từ những Bobby Dandridge, Jon McGlocklin, Greg Smith và cầu thủ trẻ Lucius Allen, Milwaukee giành được thành tích tốt nhất trong mùa giải 1970-72 với 66 trận thắng, bao gồm kỉ lục chuỗi 20 trận thắng liên tiếp. Alcindor giành danh hiệu MVP đầu tiên và thành tích ghi điểm kỉ lục đầu tiên (31.7ppg) trong khi đứng thứ 4 về rebound (16.0 rpg). Milwaukee tiến thằng qua vòng playoff với thành tích 12-2 và loại Baltimore Bullets trong một loạt Final chóng vánh nhất trong lịch sử giải. Alcindor giành được MVP final đầu tiên.

Đội hình Milwaukee Buck mùa giải 1970-71: Abdul-Jabbar số 33, Oscar số 1, Dandridge số 10, Mocklin số 14

Trước mùa giải 1971-72, Alcindor cải đạo từ Công giáo sang Hồi giáo và lấy một cái tên mới là Kareem Abdul-Jabbar, nghĩa là” đấng bầy tôi quyền uy và ưu việt”. Và ông vẫn thực sự là một cầu thủ quyền uy và ưu tú trong đội hình sáng chói của Milwaukee. Mùa bóng 1971-72 ông tái lập thành tích vô địch về ghi điểm (34.8 ppg) và NBA MVP, Bucks tiếp tục vô đối bảng xép hạng lần thứ 2 trong 4 năm liên tiếp, nhưng sau đó Abdul-Jabbar cùng đồng đội để thua Los Angeles Laker trong loạt Final miền Tây với tỉ số 4-2.

Lew Alcidor cải đạo và đổi tên thành Kareem Abdul-Jabbar

Mùa giải 1972-73, mùa giải tiếp theo Abdul-Jabbar tiếp tục cùng Bucks gục ngã tại loạt bán kết miền Tây trước Golden State Warrior. Vẫn là những thành tích cao chót vót về ghi điểm ( 30.2 ppg – 55,4% thành công) hay rebound (16.1 rpg), song dường như bắt đầu có sự lạc nhịp giữa Abdul-Jabbar và Buck.

Mùa bóng 1973-74 Abdul-Jabbar giành danh hiệu MVP thứ 3 trong năm thứ 5 chơi tại NBA và chiếm giữ vị trí trong top 5 các thành tích: ghi điểm (27.0 ppg, xếp thứ 3), rebound (14.5 rpg, xếp thứ 4), blocked (283, xếp thứ 2) và tỉ lệ ghi điểm ( 53,9%, xếp thứ 2). Bucks quay trở lại chung kết NBA nhưng thua Boston Celtics được dẫn dắt bởi trung phong cao 2m5 Dave Cowens và dàn hậu vệ chơi ổn định trước một Robertson đã 35 tuổi. “The Big O” giải nghệ sau playoff, kết thúc thời kì vơ vét danh hiệu của Bucks. Đội bóng tụt dốc không phanh ở mùa bóng tiếp theo 1974-75 với thành tích bết bát 38-44.

Bất chấp những thành công đạt được ở Milwaukee, Abdul-Jabbar vẫn không vui vẻ khi thiếu đi người chia sẻ đức tin về tôn giáo và muốn ra đi. Ông yêu cầu được chuyển nhượng tới New York hoặc Los Angeles, và Giám đốc điều hành Bucks Wayne Embry đồng ý, đưa Abdul-Jabbar tới Lakes vào năm 1975 đổi lấy Junior Bridgeman, Dave Meyers, Elmora Smith và Brian Winters. Số phận của Abdul-Jabbar tiếp tục mở sang trang mới.

III. Đến với Lakers

Lúc ấy, Lakers đang tìm kiếm người thay thế Wilt Chamberlain đã nghỉ hưu 2 năm trước, một nhân tố khiến họ quên đi mùa giải tệ hại 1974-75 với thành tích 30-52. Abdul-Jabbar đã cho thấy một sự thay đổi toàn diện ngay trong mùa bóng đó, và tiếp tục giành NBA MVP với 27.7 ppg và 16.9 rpg. MVP thứ 4 chỉ trong 7 năm thi đấu??!

Mùa tiếp theo đó, Jerry West, biểu tượng NBA được chọn làm huấn luyện viên Laker, và ông đã đưa đội bóng quay trở lại vị trí số 1 với thành tích tốt nhất cả mùa 53 – 29. Abdul-Jabbar có 26.2ppg, 13.3 rpg và 57,9% fgp cùng 261 block, tiếp túc vét nốt chức MVP thứ 5 trong vòng 8 năm, cân bằng với kỉ lục của huyền thoại Bill Russell. Nhưng Lakers đã bị thổi bay trong loạt chung kết miền bởi cựu vương Portlan Trail Blazzers, đội bóng có big man cực kì đáng sợ khi đó là Bill Walton.

Bất chất những nỗ lực tuyệt vời của Abdul-Jabbar, Lakers kết thúc ở quãng giữa bảng xếp hạng ở cả 2 mùa sau đó. Ông vẫng tiếp tục viết nên những thành tích tuyệt vời, bất chấp chuỗi 20 trận vắng mặt vì chấn thương do ẩu đả với tân binh Milwaukee Kent Benson khi mùa giải 1977-78 mới bắt đầu. Cầu thủ trẻ Jamaal Wilkes và Norm Nixon đầy hứa hẹn, nhưng Laker vẫn không thể thoát khỏi tình trạng trì trệ

Năm 1979, với fist-round pick draft giành được từ Utah Jazz, Laker chọn được hậu vệ 2m5 Earvin “ Magic” Johnson từ bang Michigan. Sự xuất hiện của Johnson’s đánh dấu sự khỏi đầu của một thập kỉ mà Laker và Abdul-Jabbar giành tiếp 5 nhẫn vô địch nữa. Với lối đánh phản công nhanh chớp nhoáng được gọi là “Showtime”, Lakers giành tới 9 danh hiệu vô địch bảng xếp hạng trong vòng 10 năm cuối sự nghiệp của Abdul-Jabbar.

Bộ đôi huyền ảo chỉ xếp sau cặp Jordan -Pipen

Ông vẫn tiếp tục có trung bình 20 ppg trong vòng 6 mùa tiếp theo. Chỉ số rebound quanh quẩn ở quãng 6-8 trong những năm mà tì đè và cân thể lực chiếm vị trí bắt đầu đóng vai trò quan trọng. Nhưng ông vẫn giữ nguyên vóc dáng kiểu mẫu của mình. Ngay cả khi ngoài 30, dáng người ông vẫn rất gọn gàng, cơ bắp và có chơi suốt 32-35 phút một game ở cái tuổi mà hầu hết các cầu thủ đều đã giải nghệ.

“ Ông ấy là vận động viên hoàn mỹ nhất trong các môn thể thao” Magic Johnson nói với kí giả Gary Smith.

Trong những năm cuối cùng của sự nghiệp, chương trình tập luyện của Abdul-Jabbar trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ông tập thêm Yoga và võ thuật để giữ cho đôi tay khỏe mạnh và linh hoạt, đồng thời cũng tĩnh tâm trước các trận đấu để giảm stress.

Vào ngày 5/4/1984, trong một trận đấu với Utah Jazz ở Las Vegas. Abdul Jabbar đã có một khoảnh khoắc tuyệt đẹp. Nhận đường chuyền từ Magic Johnson, Abdul-Jabbar xoay người và tung cú ném thương hiệu Sky hook về khía rổ. Pha ghi điểm không chạm vành rổ đưa ông đến với con số 31,420 điểm ghi được cả sự nghiệp, và cũng đưa ông vượt qua Wilt Chamberlain trở thành cầu thủ ghi nhiều điểm nhất mọi thời đại ở NBA.

Khoảnh khắc huyền thoại - vị vua ghi điểm mới của NBA

Laker vào đến NBA Finals lần thứ 8/10 mùa bóng từ 1979-80 đến 1988-89. Họ giành 5 danh hiệu, thắng Boston và Philadelphia hai lần mỗi đội, Detroit Piston một lần. Năm 1985, series final đấu với Boston có lẽ là chuỗi trận đáng nhớ nhất của Abdul-Jabar. Ở cái tuổi 38, trung phong gạp cội được xem là đã bước vào chặng cuối của sự nghiệp. Game 1 chứng tỏ họ đúng phần nào khi Abdul-Jabbar chỉ ghi được 12 điểm và 3 rebound trong cuộc đối đầu với Robert Parish. Celtics giành chiến thắng giàn gia với tỉ số lên đến 148-114, một cuộc thảm sát kinh dị. Trong vòng 2 ngày sau đó, Abdul-Jabbar giành hàng giờ xem lại những thước phim về trận đấu, và tham gia một đợt huấn luyện marathon bao gồm hơn 1 tiếng tập bứt tốc. Thông báo đưa ra bới Riley để thuyết phục Abdul-Jabbar tạm nghỉ đã thất bại.

Ông trở lại trong game 2 với 30 điểm, 17 rebound, 8 assist và 3 block trong chiến thắng 109-102 của Lakers. Đội bóng đi thẳng tới chức vô địch trong 6 game đấu. Chức vô địch thứ 4 của Lakers khi có Abdul-jabbar, và ông ghi trung bình 30.2 ppg, 11.3 rpg. 6.5 apg và 2.0 block apg. Một khoảnh khắc đáng nhớ khi Abdul-jabbar rebound bóng trong một pha tranh chấp, dẫn bóng cả sân và thực hiện một cú Sky hook. Ông cũng được xướng danh là MVP Final năm đó. Chức vô địch ấy được ông nhận xét là ngọt ngào nhất trong 6 danh hiệu của mình. Nhất là khi nó diễn ra ở TD Garden, nơi chỉ vừa mới năm trước là nơi đăng quang của Boston trước Lakers và cũng là bóng ma ám ảnh đội bóng thành phố Los angeles trong suốt triều đại của Bill Russell.

Đối đầu với quá khứ

Mùa bóng 198601987, Lakers tiếp tục đánh bại Boston và giành ngôi vô địch. Magic Johnson trở thành ngôi sao mới vượt trội hơn Abdul-Jabbar, dù ông vẫn đều đặn ghi 17.5 ppg cả mùa( lần đầu tiên trong cả sự nghiệp ghi trung bình dưới 20 ppg). Ở tuổi 40, ông vẫn kí tiếp một bản hợp đồng 2 năm. Năm tiếp theo Lakers tiếp tục vượt qua Detroit và biến họ thành đội thứ 2 ở NBA bảo vệ thành công ngôi vô địch kể từ chiến tích của Celtics mùa bóng 1968-69.

Vào mùa bóng 1988-89, mùa bóng cuối cùng của Abdul-Jabbar, Laker quay trở lại NBA Final trong cuộc tái đấu với Piston. Abdul-Jabbar thiết lập một kỉ lục cá nhân toàn mùa với 24 điểm và 13 rebound, nhưng Johnson và Byron Scott đều gặp chấn thương gân kheo. Kết quả là Lakers bị đánh bại. Trong game cuối, Abdul-Jabbar chỉ ghi được 7 điểm và 3 rebound. Trong suốt mùa giải thường niên ông ném với tỉ lệ dưới 50% (47,5% fg) và trung bình 10.1 điểm, thấp nhất trong sự nghiệp.

Những khoảnh khắc cuối cùng

Ngày 28/6/1989, sau 20 năm chơi bóng chuyên nghiệp, Abdul-Jabbar tuyên bố giải nghệ. Ông nhận được sự tán đồng và tung hô ở khắp mọi nơi, tỏng các trận đấu cả sân nhà và sân khách.Một chiếc du thuyền chăng những chiếc áo đấu trong sự nghiệp của ông lên một tấm thảm to. Trong cuốn tự truyện My life, Magic Johnson nhắc lại về trận đấu tạm biệt Abdul Jabbar rằng rất nhiều huyền thoại của Lakers và Celtics đã tham gia. Mọi cầu thủ đều đeo đôi kính mắt thương hiệu của Abdul-Jabbar và đều cố thực hiện skyhook ít nhất là một lần. Laker cũng như Bucks, treo vĩnh viễn số áo 33 để công nhận những đóng góp của ông cho đội bóng, đồng thời cũng dựng tượng đồng theo cái cách mà Bulls làm với Jordan. Với một đội bóng luôn nhiều siêu sao và huyền thoại như Lakers, điều đó thật không dễ gì đạt được.

"Kareem Abdul-Jabber trong lễ khánh thành bức tượng của mình ngày 16/11/2012

Sự kiện giải nghệ của Abdul-Jabbar đánh dấu chấm dứt một thời kì của NBA. Ông rời giải đấu với tư cách là nhà vô địch mọi thời đại về tổng số điểm ghi được trong sự nghiệp, kỉ lục mà có lẽ chẳng có ai vượt qua được. Với 38,387 điểm (24.6 ppg), 17,440 rebound ( 11.2 rpg), 3,189 blocks và tỉ lệ 55,9% fgp trong vòng 1560 trận đấu kéo dài 20 năm sự nghiệp. Ông đã ghi trên 10 điểm trong suốt 787 game liên tiếp.

7 năm sau ngày giải nghệ, Abdul-Jabbar nói trên Orange County Register, “Những năm 80 tạo nên từ tất cả những sự cực khổ tôi gánh chịu trong suốt những năm 70. Tôi đã vượt qua mọi lời chỉ trích. Vào lúc giải nghệ, mọi người nhìn tôi như một người đáng kính thân thuộc. Mọi thứ thực sự đã đổi thay”

Từ khi giải nghệ, Abdul-Jabbar đã viết một vài cuốn sách, làm việc trong ngành công nghiệp giải trí và là đại sứ bóng rổ, hoạt động với tư cách là một huấn luyện viên và bình luận viên cũng như phục vụ cho các hoạt động chống đói nghèo.

Năm 1995, Abdul-Jabbar chính thức bước vào ngôi đền danh vọng Hall of Fame với những thành tích tuyệt vời trong sự nghiệp.

IV. Skyhook huyền ảo

Skyhook, mọi góc độ, mọi đối thủ đều luôn hiệu quả đến chết người

Điều gì khiến Karrem Abdul-Jabbar trở nên khác biệt với phần còn lại của giải đấu trong suốt chừng ấy năm? Số áo 33 huyền thoại? Dáng người cơ bắp và những bước di chuyển nhanh nhẹn đến khó tin ở một trung phong? Đôi kính mắt không thể lẫn vào đâu được? Vâng, những cái đó cũng điển hình lắm, nhưng có lẽ thương hiệu độc đáo nhất mà ông tạo dựng bên cạnh dáng dẫn bóng kinh điển của Jerry West, hình tượng lịch sử Air Jordan chính là khoảnh khoắc xoay người thực hiện cú ném Sky Hook.

Chân trái duỗi thẳng, đầu gối phải vuông góc, tay trái mở rộng, tay phải nâng cao bóng lên và xoay cổ tay, đẩy trái bóng theo đường vòng cung về phía rổ, xuyên qua lưới. Tất cả chỉ có thế, nhưng cũng chỉ cần thế để làm được những điều mà các động tác ghi điểm khác có lẽ chẳng bao giờ làm được.

Thực ra Abdul-Jabbar không phải là người sáng tạo ra cú ném này. Và cũng không phải lúc nào người đầu tiên cũng là người tuyệt nhất. Như kiểu Xin lỗi anh của G+ cũng chả hay bằng No say ben của Leg ft Saint, hoặc như Allen Iverson đã trở thành huyền thoại với cú cross-over ai cũng biết, người dạy anh kĩ thuật đó lại là một hậu vệ vô danh chơi cho một đội bóng NCAA tên là Dean Barry. trong bóng rổ, nơi mà tài năng được đề cao hơn bất cứ thứ gì thì chiến thắng thuộc về người ứng dụng tốt nhất nhiều hơn là người sáng tạo.

George Mikan và Cliff Hagan có lẽ là những người đặt nền móng cho cú hook shot của Abdul-Jabbar. Abdul-Jabbar có thể chưa từng xem Mikan, big man của Lakers đã từng thực hiện một cú ném gần tương tự thế. Nhưng ông đã chứng kiến Hagan của St. Louis Hawks thực hiện hook shot này. Và trong nỗ lực đối đầu với những đối thủ già dặn hơn, cao hơn và thể chất khủng hơn mình từ năm lớp 5, ông đã tìm đến hook shot như một giải pháp.

Đó là cú ném duy nhất tôi có thể thực hiện mà không bị đập vào mặt”, ông nói. “Thế nên tôi luyện tập đi luyện tập lại…”

Trong quá trình luyện tập thời còn chơi ở giải đấu công giáo tại New York, ông dần mở rộng cự ly của cú ném, ban đầu là từ dưới rổ rồi tiến dần ra ngoài. Ở cái thời mà khu vực 3 giây vẫn còn chật hẹp và đầy cơ bắp, việc một trung phong ghi điểm ở khoảng cách xấp xỉ vạch ném phạt là một điều hết sức đặc biệt.

Cái tên Skyhook được đặt trong thời kì Abdul-Jabbar chơi cho Milwaukee Bucks, bởi một phát thanh viên tên là Eddie Doucette: “Cú ném có độ cao kì lạ như thể nó sắp bay vọt lên trời vậy”.

Câu hỏi đặt ra là tại sao cú ném lại nguy hiểm chết người đến vậy, nhất là khi nó lại được dùng đối với những Center chuyên về phòng thủ và Block?

Điều này được lý giải rằng: thứ 1, khi thực hiện Skyhook, vai của người ném ở tư thế vuông góc với bảng rổ, tạo thành một bức tường ngăn cách người phòng thủ với tay ném bóng. Hơn nữa Abdul-Jabbar thường có thói quen mở rộng tay trái về phía đối phương, điều này cũng khiến khoảng cách để người phòng thủ với tới trái bóng xa thêm một khoảng đáng kể. Ở các cú jumshot hoặc lay up, người tấn công thường đối diện với người phòng thủ, khoảng cách đó ngắn hơn nhiều.

Thứ 2, đó là yếu tố thời gian. Kareem Abdul-Jabbar miêu tả rằng đối phó với cú ném đó, bạn cần nhiều thời gian để nhận biết động tác của đối phương hơn.

“Khi bạn ném Skyhook, bạn buộc đối phương phải đi theo bạn”, ông nói, “ Và nếu họ đợi đến khi tôi bắt đầu ném, thì tức là họ phải quyết định khoảng cách và thời gian của nó, thế rồi nó vào rổ trước khi họ có thể theo kịp. Đối với tôi, cái hay của cú ném là ở chỗ đó. Bạn có thể kiểm soát việc bạn sẽ thả bóng ở đâu và khi nào. Người phòng thủ phải nhìn và tính toán mọi thứ trước khi họ có cơ hội block trái bóng”.

Quả thực vậy, đối đầu trực diện với một cầu thủ đang đưa bóng lên, mọi chuyển động của anh ta đều lọt vào mắt chúng ta. Việc nhận thức và đưa ra quyết định phòng thủ dễ dàng hơn nhiều khi cầu thủ đó dùng Skyhook, vì anh ta quay lưng lại và chúng ta chẳng nhìn thấy gì cả.

Thứ 3, đó là việc Abdul-Jabbar dùng được cả 2 tay. Cái này thì ai cũng hiểu khi một cầu thủ có thể ghi điểm bằng cả 2 tay, việc chặn anh ta khó đến thế nào. Ban đầu là những cú xuay người Jump shoot khi bị kèm chặt bên phải, những năm sau đó đã có một phiên bản Skyhook bên trái ra đời.

Thứ 4, kể cả double team cũng không phải là phương án hữu hiệu, nhất là khi Abdul-Jabbar chơi trong một tập thể luôn thừa mứa All-Star như Laker. Đó là Magic Johnson, James Worthy, Norm Nixon và Jamaal Wilkes.

“Điều đó khiến người ta phải đưa ra một quyết định gần như là tự sát”, ông nói. “ Anh muốn tôi ghi điểm hay chuyền cho người khác ghi điểm”.

Về cơ bản, nếu ai đã xem những cú đột phá của James rồi chuyền ra ngoài cho các xạ thủ ở Heat mùa này thì sẽ phần nào hiểu.

Tất cả những điều đó, cùng một lô những yếu tố khác như khả năng tì đè, sự tinh quái trong phản xạ và cảm giác bóng gần như không thay đổi suốt 2 thập niên đã khiến Kareem Abdul-Jabbar đưa skyhook lên một tầm cao ngoài sức tưởng tượng. Có thể nhiều center khác vẫn đang ngày đêm tập luyện kĩ thuật đó, có một sự tiếc nuối nhẹ với đệ tử ruột của Abdul-Jabbar – Andrew Bynum, nhưng chưa có ai thực hiện nó nhuần nhuyễn và tuyệt với trong quãng thời gian dài như thế.

Tên đầy đủ: Kareem Abdul – Jabbar

Tên khai sinh: Ferdinand Lewis Alcindor Jr
Quốc tịch: Hoa kì
Sinh: 16/4/1947 (66 tuổi)
Cao: 2m18
Nặng: 102kg
Trường trung học: Power Memorial
Trường đại học: UCLA (1966-1969)
NBA draft: 1969/ Vòng: 1/ Pick: 1 bởi Milwaukee Bucks
Sự nghiệp chuyên nghiệp: 1969-1989 (20 năm)
Từ 1969-1975 : Milwaukee Bucks / Áo số: 33 / Vị trí: Center
Từ 1975-1989: Los Angeles Lakers / Áo số: 33 / Vị trí: Center

Danh hiệu chính:
Thành viên của Naismith Memorial Basketball Hall of Fame (1995)
6x NBA Champion ( 1971, ’80, ’82, ’85, ’87, ’88)
2x NBA Finals MVP ( 1971, ’85)
6x NBA MVP ( 1971, ’72, ’74, ’76, ’77, ’80)
10x All-NBA First Team
5x All-NBA Second Team
5x All-Defensive First Team
6x All-Defensive Second Team
19x All-Star
1 trong 50 cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử NBA theo tạp chí SLAM Magazine
Cùng nhiều danh hiệu khác.

fantom | 00:00 30/11/-0001
Chia sẻ
Loading...

Bài viết mới Bài cùng chuyên mục